Tìm hiều về cây cà phê Arabica ( cà phê chè )
- Tên khoa học: Coffeaarabica ( Đây là loài thuộc họ Cà phê (Rubiaceae), chi Cà phê (Coffea)).
- Tên tiếng Việt: Cà phê chè (do loài cà phê này có lá nhỏ, cây thường tỉa thấp giống cây chè, một loài cây công nghiệp phổ biến ở Việt Nam).
- Tên tiếng Anh: Arabica coffee. ICE Futures U.S. cung cấp các hợp đồng cho hai loại cà phê Arabica và Robusta. Tuy nhiên, hợp đồng chuẩn Coffee “C” là cho cà phê Arabica.
1. Nguồn gốc và đặc điểm hình thái:
Cà phê Arabica có nguồn gốc ở cao nguyên Jimma ở tây nam Etiopia và cao nguyên Boma ở đông nam Sudan. Tuy nhiên, nó được trồng trọt đầu tiên bởi người Ả rập ở thế kỉ 14 và được giới thiệu rộng rãi trên thế giới ở thế kỉ 17. Cà phê Arabica được mô tả đầu tiên bởi nhà sinh vật học Linnaeus (Thụy Điển) vào năm 1753. Cây cà phê Arabica trưởng thành có dạng bụi cây lớn, thẳng đứng, cao khoảng 6m, thực tế chỉ cao khoảng 2-3m, giống của VN nếu để mọc hoang dã có thể cao đến 15 m. § Cây cà phê có cành thon dài, đối xứng. Lá mọc đối xứng, cuống ngắn 0.4 – 1.2 cm. Lá có hình oval, nhọn ở hai đầu, rìa lá quăn, mềm và rũ xuống. Chiều dài của lá khoảng 7 – 20 cm, rộng 4 – 6 cm. Mặt lá nhẵn, mặt trên lá có màu xanh thẳm, mặt dưới xanh nhạt hơn. Vỏ cây mỏng, có màu xám nhạt và trở nên nứt nẻ, sần sùi khi già Gỗ cây có màu nhạt, cứng, nặng và chắc.Hệ thống rễ bao gồm một rễ trung tâm to, ngắn, cắm sâu vào lòng đất và các rễ phụ lan tỏa xung quanh. Hoa có năm cánh, màu trắng và có hương thơm. Hoa mọc thành từng cụm hoa gồm 2 – 9 cái ở nách lá. Trái cà phê thuộc loại quả thịt, hình oval. Trái xanh khi chín có màu đỏ tươi (chủng Caturra amarello có quả màu vàng), sau chuyển thành màu xanh đen. Trái dài 1.0 – 1.8 cm và rộng 0.8 – 1.2 cm. Trái thường chứa 2 hạt hơi dẹt và thon, có màu xanh lá, dài 0.8 – 1.2 cm. Khi chỉ có một hạt phát triển, nó được gọi là peaberry. Hàm lượng caffeine trong hạt trung bình 1,3%. Caffeine có thể bảo vệ các bộ phận sinh dưỡng của cây khỏi côn trùng, nấm mốc và ngăn ngừa sự phát triển của các cây và vi khuẩn gần hạt cà phê nảy mầm. Cà phê Arabica có bộ nhiễm sắc thể là tứ bội (4n = 44) trong khi các loài cà phê khác là lưỡng bội (2n = 22). Cây cà phê Arabica có đặc tính tự thụ phấn nên có độ thuần chủng cao hơn các loại cà phê khác.
2. Đặc điểm sinh trưởng:
Điều kiện trồng trọt
Cây cà phê Arabica ưa nơi mát và hơi lạnh. Nhiệt độ thích hợp để phát triển là khoảng18 – 240C. Sự phát triển của cây sẽ suy yếu khi nhiệt độ môi trường trên 250C. Nếu có sương giá thì lá và trái cà phê sẽ bị hư hại. Do đó, cà phê Arabica
thường trồng ở miền núi có độ cao từ 600 – 1500 m. Để cây arabica phát triển tốt, thông thường độ cao phải trên 1.000m. Dưới độ cao này, cây phát triển rất èo uột.Ngoài ra, lượng mưa thích hợp cho sự phát triển của cây là 1200 – 1500 mm/năm. Nếu lượng mưa cao 2500 – 3000 mm sẽ bắt đầu gây bất lợi cho cây. Cây cà phê phát triển được trên đất có pH từ 4 – 8, tối ưu 5.2 – 6.2. Ngày nay, cà phê Arabica được trồng ở những vùng đất cao, cận nhiệt đới: khắp châu Mỹ Latin,Trung và Đông Phi, Ấn Độ, và vài vùng ở Indonesia.
Thu hoạch
Cây cà phê Arabica có thể cao tới 6 m. Tuy nhiên ở các nông trường, người ta thường phải cắt tỉa để giữ được độ cao từ 2 – 4 m, thuận lợi cho việc thu hoạch. Sau khi trồng được 12 tháng, cây có thể đạt chiều cao để hãm ngọn. Cà phê Arabica sau khi trồng được khoảng 3 đến 4 năm thì có thể bắt đầu cho thu hoạch. Cây cho sản lượng trái cao nhất ở những năm thứ 6 – 8. Thông thường, cà phê 25 tuổi đã được coi là già, không thu hoạch được nữa. Trên thực tế, nó vẫn có thể tiếp tục sống thêm khoảng 70 năm. Đối với cà phê Arabica, chỉ có một mùa thu hoạch trong năm. Tuy nhiên, ở Colombia, có một mùa thu hoạch chính và một mùa phụ do họ có giống Arabica tốt. Thời gian từ khi ra hoa đến khi trái chín là khoảng tõ 7 – 9 th¸ng và thời điểm thu hoạch trái thường vào tháng 9 hằng năm. Ở những đốt ra hoa và quả ở năm nay sẽ tiếp tục ra hoa ở những năm sau đó. Do đó, khi thu hái trái cà phê Arabica thường được tiến hành bằng tay để không làm tổn hại các đốt ra hoa và chọn lọc được những hạt cà phê chất lượng. Thu hoạch cà phê Arabica cần nhiều lao động.
3. Giá trị kinh tế:
Cà phê Arabica là loài có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Nó chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn thế giới. Trên thị trường, cà phê Arabica được đánh giá cao hơn cà phê Robusta vì có hương vị thơm ngon và chứa ít hàm
lượng caffein hơn. Ngoài ra, cà phê Arabica được chế biến theo phương pháp ướt – một phương pháp đòi hỏi đầu tư lớn về trang thiết bị và tạo sản phẩm chọn lọc có chất lượng cao. Cà phê Arabica còn được gọi là Brazilian Milds nếu nó đến từ Brasil, gọi là Colombian Milds nếu đến từ Colombia, và gọi là Other Milds nếu đến từ các nước khác. Qua đó có thể thấy Brasil và Colombia là hai nước xuất khẩu chính loại cà phê này, chất lượng cà phê của họ cũng được đánh giá cao nhất. Chất lượng cao chỉ có Colombia, Brazil, chất lượng trung bình.Các nước xuất khẩu khác gồm có Ethiopia, Mexico, Guatemala, Honduras, Peru, Ấn Độ.
4. Các chủng cà phê Arabica:
Mundo novo, catuai và catimor phổ biến hơn vì đặc tính cho sản lượng cao. Typica, bourbon và caturra thường được dùng làm mẫu thử nếm.
Typica
Cây Typica có dạng giống hình nón và có thể đạt chiều cao 4.5 m. Các nhánh bên thường nghiêng một gốc 50 – 700 so với gốc thẳng đứng. Typica có chất lượng chuẩn với năng suất thấp, và hầu như luôn tạo ra vi chua rõ và cộng hưởng, tăng dần nồng độ ở những nơi cao hơn. Đặc tính thử nếm là vị chua của chanh với chút hương hoa và hậu vị ngọt kéo dài.
Bourbon
Bourbon được khám phá đầu tiên trên Reunion – một hòn đảo gần Madagascar, được đặt tên ban đầu là Bourbon. Hạt có vị acid nhẹ với mùi rượu vang, hậu vị ngọt. Bourbon được trồng ở những nơi cao hơn thường có đặc tính thơm hương hoa. Lá của cây bourbon rộng và trái tương đối nhỏ, và nặng nên hạt nhỏ và tròn hơn typica.
Caturra
Caturra được khám phá đầu tiên ở Brazil. Nó được trồng thương mại đầu tiên ở Minas Gerais, Brazil từ năm 1937 và sau đó lan rộng ra cả châu Mỹ Latin. Caturra là một dạng đột biến của bourbon, nó có thể tạo trái có chất lượng tốt và sản lượng cao. Để duy trì hiệu quả sản xuất, cây phải được thụ phấn và cắt tỉa liên tục. Cây tương đối thấp với gốc cây thẳng to và nhiều nhánh phụ. Lá cây tương tự là bourbon. Đặc tính thử nếm là vị acid của chanh rõ rệt, đặc biệt là ở những nơi cao hơn. Caturra không ngọt bằng bourbon, nhưng điều này có thể thay đổi với tần số và mức dộ thụ phấn.
Catuai
Catuai là chủng lai giữa mundo novo và caturra. Catuai có thể được trồng với mật độ cao hơn và cho sản lượng cao nếu được thụ phấn hợp lý. Một ưu điểm nữa của catuai là khả năng chịu gió và mưa; các trái không dễ bị rụng dưới các tác động đó. Catuai không có hương vị đặc trưng rõ rệt. Tuy nhiên, độ ngọt của catuai có thể bị tác động mạnh bởi phương pháp thụ phấn. Sử dụng phân hữu cơ cũng làm tăng độ ngọt và cải thiện hương vị cà phê đáng kể.
Mundo Novo
Đây là một chủng lai tự nhiên khác giữa typica và bourbon. Những ưu điểm của mundo novo bao gồm năng suất cao, khả năng kháng bệnh tốt. Hương vị của cà phê này thường rất ít ngọt và đắng rất rõ. Điều kiện dinh dưỡng và phương pháp thụ phấn sẽ cải thiện hương vị.
Maragogype
Chủng cà phê này được đặt tên sau khi một nơi ở Bahia, Brazil được gọi là “Maragogype”. Hương vị cà phê này rất dịu với vị chua phảng phất vị ngọt. Maragogype không dễ rang. Hạt cà phê phải được rang chậm và ở nhiệt độ thấp đủ để tạo hương vị độc đáo của riêng nó. Maragogype là một dạng đột biến của chủng typica và năng suất rất thấp.
Pacas
Là một dạng tạp giap giữa caturra và bourbon. Chủng này cho năng suất cao.
Pacamara
Đây là một họ hàng của maragogype. Chủng này là kết quả của sự tạp giao giữa maragogype và pacas.
Catimor
Là một dạng tạp giao giữa Timor ( Robusta) và caturra (Arabica). Nó được tạo ra lần đầu vào năm 1959 ở Bồ Đào Nha. Ưu điểm của nó là có khả năng kháng bệnh gỉ sắt, cho năng suất tương đối cao. Chất lượng thử nếm của catimor khá đặc biệt vì độ chua của nó với một ít vị chát và có hậu vị hơi mặn.
Bình luận
Powered by Facebook Comments